Biển Đông

Tranh chấp ở Biển Đông có lợi cho Mỹ

Báo cáo lần thứ 150 mang tên "Ranh giới trên biển" do Văn phòng Các vấn đề Đại dương và Địa cực thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố gần đây, dành riêng nói về các yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông, đã thu hút sự chú ý một cách chính đáng ở cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Sputnik

Hành động của Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế

Kết luận của báo cáo khá dễ đoán: các yêu sách hàng hải rộng lớn của Trung Quốc ở Biển Đông không phù hợp với luật pháp quốc tế như được phản ánh trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Có hai điểm mâu thuẫn chính. Đầu tiên, CHND Trung Hoa vẽ các đường cơ sở mà theo đó tất cả các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ được tính cả từ các nhóm đảo không được cho phép. Ngoài ra, Bắc Kinh còn tuyên bố chủ quyền đối với hơn một trăm vật thể ở Biển Đông, chúng bị nhấn chìm dưới nước khi thủy triều lên, và do đó không phải là đảo và không thể đặt chủ quyền lên đó.

“Khái niệm pháp lý về một hòn đảo trong Công ước có nghĩa là một vùng đất hình thành tự nhiên, nằm trên mực nước khi thủy triều lên và cho phép con người sống trên đó, tức là ít nhất phải có nước ngọt, - chuyên gia về luật hàng hải, nhà nghiên cứu hàng đầu tại Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế (IMEMO) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga Pavel Gudev nhấn mạnh. - Còn các mỏm đá, đá ngầm và đảo san hô ở Hoàng Sa và Trường Sa không đáp ứng được các tiêu chí này. Xung quanh các tảng đá, theo Công ước 1982, chỉ có thể thiết lập khu vực 12 dặm. Mỏm đá, rạn san hô và đảo san hô nổi dần lên sau thủy triều không được bất kỳ quyền nào, cũng như các đảo nhân tạo chỉ có vùng an toàn 500 m. Trọng tài La Hay năm 2016 đã phán quyết rằng trạng thái của một thực thể trên Biển Đông phải được xác định theo trạng thái ban đầu của nó, tức là nếu hòn đảo được tạo ra dựa trên bãi đá ngầm và đặt trên đó một hệ thống khử muối làm nước ngọt, thì đó vẫn chỉ là một bãi đá ngầm, và không thể coi là một hòn đảo chính thức mà xung quanh đó có thể thiết lập vùng đặc quyền kinh tế”.

Biển Đông
Việt Nam bác bỏ thông tin trang bị vũ trang cho lực lượng dân quân tự vệ của Việt Nam trên biển Đông
Điểm mâu thuẫn thứ hai: Trung Quốc giải thích yêu sách của họ đối với 80% diện tích mặt nước Biển Đông bằng “quyền lịch sử”. Theo UNCLOS, các quyền lịch sử có thể được yêu cầu đối với các vùng nước kiểu như vịnh biển, vùng biển nội thủy. Nhưng điều này không áp dụng cho Biển Đông, nơi có luồng giao thông khổng lồ, nơi mà lợi ích các quốc gia xung đột với nhau. Pavel Gudev giải thích các quyền lịch sử được trình bày theo tiêu chí nào và tại sao các tiêu chí này không áp dụng được trong trường hợp Biển Đông.
“Có ba trong số đó: a) nếu vùng nước có tầm quan trọng về quốc phòng và kinh tế đối với một quốc gia nhất định, thì Biển Đông có tầm quan trọng về quốc phòng và kinh tế đối với tất cả các quốc gia ven biển; b) Nếu tính đến lịch sử thực hiện chủ quyền, thì nhiều nước có lịch sử thực hiện chủ quyền trên vùng nước này; c) nếu có sự đồng ý ngầm của tất cả các nước khác, ở đây đã và sẽ không thể có điều này”.
Tàu Trung Quốc ở Biển Đông.

Giải quyết xung đột ở Biển Đông?

Báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ một lần nữa khẳng định quyết định của Tòa án La Hay năm 2016 trong vụ kiện của Philippines. Trong khi đó, tình hình Biển Đông tiếp tục nóng lên. Trên vùng biển này đã hiện diện các tàu tuần tra không chỉ của các quốc gia ven biển và Hoa Kỳ, mà còn các tàu từ Nhật Bản và các nước châu Âu. Các bên tham gia xung đột - Trung Quốc và các nước ASEAN - kiên quyết bảo vệ các yêu cầu của mình và sẽ không từ bỏ điều đó. Xung đột này có ba kịch bản lựa chọn phát triển tình hình. Đó là sự leo thang, đóng băng xung đột, hay giải quyết dần dần. Liệu hai lựa chọn sau có khả thi không?

“Có thể, - Mikhail Terskikh, nhà khoa học chính trị, nhà phương đông học, nghiên cứu viên tại IMEMO, nói, - nhưng chỉ trong điều kiện không thể hòa giải được thì các bên phải nhượng bộ lẫn nhau, chẳng hạn như không được xây thêm đảo nhân tạo, v.v. Giờ đây, điều này bị cản trở do sự can thiệp của các quốc gia ngoài khu vực vào cuộc xung đột. Trung Quốc buộc phải đáp trả trước hành động của Hoa Kỳ, Nhật Bản, v.v., và phản ứng từ các nước ASEAN, đầu tiên là Việt Nam, trước các hành động của Trung Quốc. Bất kỳ hành động nào của các nước không liên quan trực tiếp đến xung đột đều phản tác dụng, sẽ dẫn đến một vòng căng thẳng tiếp theo, không làm suy giảm mà còn trầm trọng thêm tình hình. Việc đàm phán giữa Trung Quốc và các nước ASEAN dù khó khăn, lâu dài vẫn là điều cần thiết. Một ví dụ điển hình của việc giải quyết tranh cãi là sự phân định Biển Caspi giữa 5 quốc gia ven biển với những lợi ích, nền tảng lịch sử và văn hóa khác nhau. Quá trình kéo dài hơn 20 năm, nhưng thông qua những sự nhượng bộ lẫn nhau, vấn đề này đã được giải quyết”.

Biển Đông
Đằng sau việc Đại sứ Việt Nam kêu gọi các nước cùng tham gia nhóm Luật biển UNCLOS
Ý kiến của chuyên gia trẻ còn được chuyên gia kỳ cựu nghiên cứu về Việt nam - nhà nghiên cứu hàng đầu tại IFES RAS Grigory Lokshin, ủng hộ.

“Một ví dụ về các thỏa thuận có thể có giữa các bên là Hiệp định giữa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 25 tháng 12 năm 2000 về hợp tác đánh bắt cá ở Vịnh Bắc Bộ. Nếu có ý chí chính trị, một sự đồng thuận như vậy có thể thực hiện được đối với toàn bộ vùng Biển Đông, cũng như các thỏa thuận về chủ quyền chung trên một số đảo. Chìa khóa để giải quyết các vấn đề của Biển Đông là nguyên tắc an ninh bình đẳng và không thể chia cắt cho tất cả các quốc gia trong khu vực, sự hợp tác toàn diện và cùng có lợi giữa ASEAN với Trung Quốc và ngược lại - Trung Quốc với các nước ASEAN, điều này sẽ dẫn đến một thỏa hiệp có thể chấp nhận được cho cả hai bên và giữ gìn sự cân bằng lợi ích”.

Chúng ta cũng không nên quên rằng trên chính trị trên quy mô thế giới không có sự vị tha. Nếu Mỹ, Nhật Bản, Australia tuần tra Biển Đông "để bảo vệ tự do hàng hải", nghĩa là họ đang theo đuổi nhiệm vụ của riêng mình, và không trùng với mục tiêu giải quyết xung đột. Theo cách này, các quốc gia thực hiện quyền kiểm soát đối với khu vực quan trọng này và nâng cao vai trò của họ trên trường thế giới, Mikhail Terskikh tin tưởng. Và đối với Hoa Kỳ, bất kỳ điểm nóng nào của căng thẳng xung quanh đối thủ của họ - Trung Quốc, bất kỳ xung đột nào ở ngoại vi Trung Quốc, tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết đều có lợi, vì điều này làm phân tán nguồn tài nguyên của Trung Quốc. Do đó, lợi ích của Hoa Kỳ không phải là giải quyết tranh chấp, mà là giữ cho nó luôn "trong tình trạng báo động".
Ý kiến trong bài viết là quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Sputnik.
Biển Đông
Bắc Kinh lại tố Mỹ xâm phạm lãnh hải "Trung Quốc"
Thảo luận