Việt Nam đang đem tiền “cho không” nước khác

Theo VCCI, với chính sách thuế VAT hiện nay, Việt Nam đang “cho không” tất cả các nước đối tác số tiền thuế rất lớn và “mở toang” thị trường trong nước của rất nhiều mặt hàng với lợi thế cho hàng nhập khẩu.
Sputnik
Dự thảo Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) được Bộ tài chính đang lấy ý kiến doanh nghiệp, theo hướng thu hẹp đối tượng không chịu VAT, đối tượng chịu thuế 5%.

Đem tiền “cho không” nước khác

Hiện nay, Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng quy định những mặt hàng như: nông sản chưa chế biến, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, máy nông nghiệp, tàu cá, thức ăn chăn nuôi, muối, phần mềm máy tính, một số thiết bị, máy móc không phải chịu thuế VAT.
Theo đánh giá của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chính sách này khiến các doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại.
Cụ thể, không chịu VAT, đồng nghĩa, các doanh nghiệp không được kê khai, khấu trừ thuế đầu vào, bao gồm cả tài sản cố định. Doanh nghiệp sẽ buộc phải tính vào chi phí sản phẩm, khiến giá thành tăng, lợi nhuận giảm.
Doanh nghiệp cũng không mặn mà đầu tư mua sắm, sửa chữa, nâng cao tài sản cố định. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp, đơn cử như trong ngành phân bón, từng bày tỏ mong muốn được tự nguyện đóng VAT.
Theo VCCI, các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng hoá thuộc nhóm dù không phải đóng thuế VAT cho sản phẩm đầu ra nhưng cũng đồng thời không được khấu trừ thuế VAT đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Đề nghị Quốc hội cân nhắc giảm 4% thuế VAT
Trong khi đó, sản phẩm tương tự nhập khẩu cũng không phải chịu thuế VAT khi nhập khẩu nhưng lại được hoàn thuế VAT khi xuất khẩu ra khỏi nước đối tác. Như vậy, đối với các mặt hàng thuộc diện không chịu thuế, hàng hoá nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng hoá sản xuất trong nước.
Theo khảo sát nhanh của VCCI, số thuế VAT chưa được khấu trừ của các mặt hàng trên xuất phát từ các chi phí đầu vào chịu thuế như chi phí nhà xưởng, văn phòng, chi phí năng lượng (điện, than, xăng dầu), chi phí vận tải, chi phí mua sắm máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông, chi phí bao bì, in ấn, chi phí quảng cáo, chi phí nguyên vật liệu đầu vào (đối với các loại nguyên vật liệu chịu thuế như kim loại, khoáng sản…) và một số chi phí khác.
Theo phản ánh của các doanh nghiệp, tỷ lệ thuế VAT chưa được khấu trừ có thể dao động từ 1% đối với một số loại nông sản đến 8% đối với phân bón, máy móc.
VCCI lưu ý, quy định về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng đang gây tác động không mong muốn là bảo hộ ngược, khuyến khích nhập khẩu hàng hoá thay vì sản xuất trong nước. Hàng hoá nhập khẩu có chi phí thuế thấp hơn so với hàng hoá sản xuất trong nước chính là chi phí thuế VAT chưa được khấu trừ kể trên. Đây là vấn đề nghiêm trọng, tồn tại từ nhiều năm nay và cần được giải quyết một cách thấu đáo trong lần sửa đổi Luật Thuế VAT lần này.
“Nếu không sẽ khiến sản xuất trong nước tiếp tục chịu thua thiệt, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển của đất nước”, VCCI gửi kiến nghị.
Dẫn chứng, giả sử có 2 nhà máy sản xuất y hệt nhau (giá nhân công, công nghệ, sản phẩm làm ra) nhóm hàng không chịu thuế, một đặt tại Việt Nam, một ở nước ngoài.
Điểm giống nhau là sản phẩm đầu ra của hai bên khi bán tại Việt Nam đều không phải đóng VAT. Điểm khác là nhà máy trong nước không được khấu trừ VAT nguyên liệu đầu vào; còn nhà máy nước ngoài được hoàn thuế khi xuất khẩu ra khỏi nước đó.
Xuất nhập khẩu Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Mỹ và Trung Quốc
Điều này khiến hàng hóa nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng sản xuất trong nước. Hàng hóa nhập khẩu có chi phí thuế thấp hơn so với hàng sản xuất trong nước chính là chi phí VAT chưa được khấu trừ kể trên. Thêm nữa, hiện các thuế nhập khẩu đã được bỏ gần hết sau khi một loạt FTA đi vào hiệu lực.
Nếu so sánh với thuế nhập khẩu, khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTAs), Việt Nam chỉ chấp nhận hạ thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng với một số đối tác theo nguyên tắc có đi có lại. Tức là các nước khác cũng phải đồng ý mở cửa thị trường cho hàng hoá của Việt Nam.
“Trong khi đó, quy định về đối tượng không chịu thuế VAT đã khiến Việt Nam “cho không” tất cả các nước đối tác số tiền thuế rất lớn và “mở toang” thị trường trong nước của rất nhiều mặt hàng với lợi thế cho hàng nhập khẩu”, VCCI bày tỏ.

4 phương án mức thuế suất

Về các mức thuế suất, dù đưa ra 4 phương án gửi tới Ban soạn thảo, tuy nhiên, VCCI đề nghị ưu tiên lựa chọn phương án 4 hoặc phương án 3.
Phương án 1, chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế 5%. Theo VCCI, phương án này có ưu điểm là dựa trên mức thuế suất 5% hiện hành, không bổ sung thêm mức thuế mới, không làm phức tạp thêm hệ thống thuế. Tuy nhiên, do chỉ có mức thuế suất 5% nên tác động sẽ không đồng đều đến các mặt hàng, các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tỷ trọng thuế VAT chưa khấu trừ lớn hơn 5% sẽ có lợi hơn những doanh nghiệp có tỷ trọng thuế VAT chưa khấu trừ nhỏ hơn 5%.
Phương án 2, thuế suất sẽ là 0% hoặc 5%. Trong đó, hàng có tỷ trọng thuế VAT chưa khấu trừ trên 5% thì về mức 5%, dưới 5% chuyển về mức 0%. VAT 0%, nghĩa là hàng hóa vẫn thuộc nhóm phải đóng thuế, chỉ là đang được hưởng thuế suất ưu đãi (khác với hàng hóa không chịu thuế). Doanh nghiệp sẽ được khấu trừ và hoàn thuế như các mức thuế suất khác.
Ưu điểm là dựa trên các mức thuế suất hiện hành là 0% và 5%, không bổ sung thêm mức thuế mới. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước đều được hưởng lợi do giảm số thuế phải đóng và được bình đẳng với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, phương án này sẽ khiến ngân sách nhà nước phải chi nhiều tiền để hoàn thuế cho các doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ gian lận thuế cao, chi phí hành thu (quản lý thuế) rất lớn.
Người đóng thuế thu nhập cá nhân không được mua nhà xã hội: Đại biểu QH nói gì?
Phương án 3, chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế. Mức thuế mới luôn thấp hơn chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm. Ví dụ, một mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 6% trong giá thành sản phẩm thì nên chuyển sang diện thuế suất 5%; mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 4% thì có thể chuyển về mức 3%.
Ưu điểm là các mặt hàng sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu chịu chung một mức thuế suất, xoá bỏ toàn bộ việc bảo hộ ngược. Ngân sách nhà nước có thể hụt thu một chút từ hàng hoá sản xuất trong nước, nhưng lại thu thêm được nhiều hơn từ hàng hoá nhập khẩu. Nhược điểm là sẽ phải đặt ra thêm các mức thuế suất mới, gây phức tạp cho hệ thống thuế. Cơ quan nhà nước phải tiến hành khảo sát để tính toán mức thuế trung bình cho từng mặt hàng. Sẽ có một số dòng sản phẩm, một số doanh nghiệp cao hơn mức trung bình được hưởng lợi và một số dòng sản phẩm, một số doanh nghiệp thấp hơn mức trung bình chịu thiệt hại về số thuế phải nộp.
Phương án 4 là cho phép doanh nghiệp trong nước chọn phương pháp tính thuế. Toàn bộ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước (không thuộc diện xuất khẩu) được phân loại vào hai nhóm với thuế suất 5% và 10%. Theo đó, chuyển toàn bộ không chịu thuế sang diện thuế suất 5%; không còn diện hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế.
Nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế 10% vẫn tiếp tục thực hiện các quy định hiện hành. Nhóm chịu thuế 5% được bổ sung vào diện cho phép lựa chọn phương pháp tính thuế khấu trừ (doanh nghiệp chịu thuế đầu ra 5% VAT được khấu trừ thuế đầu vào) hoặc phương pháp tính thuế trực tiếp (doanh nghiệp được thuế 0% trên doanh thu nhưng không được khấu trừ thuế đấu vào); Hàng hóa nhập khẩu thuộc nhóm này nộp thuế 5% khi nhập khẩu.
Các doanh nghiệp có chi phí thuế chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm nhỏ hơn 5% sẽ có xu hướng lựa chọn phương pháp tính thuế trực tiếp; lớn hơn 5% sẽ có xu hướng chọn phương pháp tính thuế khấu trừ.
Phương án này có ưu điểm là cơ quan soạn thảo không cần thực hiện khảo sát để tìm hiểu chi phí thuế chưa được khấu trừ trung bình của các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước là bao nhiêu. Đồng thời cũng không phát sinh các mức thuế mới mà vẫn chỉ có các mức 5% và 10% như hiện hành.
Nhược điểm là có nguy cơ bị phản ánh là hàng hoá nhập khẩu bị đối xử kém thuận lợi hơn so với hàng hoá trong nước, do hàng hoá nhập khẩu buộc phải nộp thuế 5% trên giá trị hải quan, còn hàng hoá trong nước được lựa chọn nộp theo phương pháp khẩu trừ (5% trên GTGT) hoặc phương pháp trực tiếp (không được khấu trừ thuế đầu vào).
Theo VCCI, nguy cơ này không cao, do hiện nay, Việt Nam đã có quy định về việc cho phép doanh nghiệp trong nước được chọn giữa phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trong khi hàng hoá nhập khẩu buộc phải nộp thuế theo trị giá hải quan.
Những nhóm hàng nào ở Việt Nam sẽ không được giảm VAT theo đề xuất của Chính phủ?

Thu hẹp hơn nữa đối tượng không chịu thuế VAT

Đối với việc dự thảo mà Bộ Tài chính đang lấy ý kiến có định hướng thu hẹp phạm vi đối tượng không chịu thuế tại Điều 5 của Luật, VCCI cho rằng, đây là quan điểm hợp lý và cần thiết nhằm khuyến khích sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, theo VCCI, dự thảo mới chỉ đề cập vấn đề này đối với phân bón, tàu cá và máy móc nông nghiệp với giải pháp đưa ra là chuyển các mặt hàng này từ diện không chịu thuế sang diện thuế suất 5%.
“Các mặt hàng còn lại thuộc diện không chịu thuế, dù gặp vấn đề bảo hộ ngược tương tự, nhưng chưa có giải pháp”.
Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để loại bỏ các mặt hàng thuộc đối tượng không chịu thuế theo một số nguyên tắc.
VCCI kiến nghị 2 nguyên tắc. Một là, đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam không nhập khẩu từ nước ngoài (hoàn toàn tự sản xuất, cung ứng và tiêu dùng trong nước) thì tiếp tục duy trì diện không chịu thuế.
Hai là, đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam có nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu dùng trong nước thì cần loại bỏ khỏi diện không chịu thuế mà chuyển sang các mức thuế suất phù hợp.
Thảo luận