Tuyệt vời Việt Nam: Một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới

Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, sẵn sàng trở thành “công xưởng” sản xuất toàn cầu, có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các nước có năng lực cạnh tranh toàn cầu tăng nhanh nhất và ở mức trung bình cao.
Sputnik

Trình bày tham luận tại Đại hội Đảng XIII, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, dần nâng cao vị thế quốc gia trong cuộc đua toàn cầu tham gia vào chuỗi cung ứng.

Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới

Sáng nay, 28/1, tham gia trình bày tham luận mang tựa đề “Nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu” tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã nêu bật một số thành tựu, xu hướng phát triển của nền công nghiệp, động lực phát triển của đất nước thời gian qua và trong nhiệm kỳ tới.

Đại hội XIII: Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân

Theo Tư lệnh ngành Công Thương, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chính phủ, sự vào cuộc tích cực “hết mình” của cả hệ thống chính trị, đất nước đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Việt Nam từ một quốc gia thuộc nhóm nghèo nhất thế giới phát triển vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực, quốc tế, tạo dựng vị thế của Việt Nam trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo ông Trần Tuấn Anh, thành tựu của công cuộc đổi mới tại Việt Nam đã tạo nên một nền tảng phát triển to lớn cho kinh tế đất nước. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Đồng chí Bộ trưởng Công Thương cho hay, hiện Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức trung bình cao.

Cụ thể, năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng 16 bậc trong vòng 10 năm, từ vị trí thứ 58 vào năm 2009 lên vị trí thứ 42 vào năm 2019 (theo xếp hạng của UNIDO).

Tuyệt vời Việt Nam: Một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới

Với thành tích này, Việt Nam trở thành quốc gia có mức tăng hạng nhanh nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN, đã tiệm cận vị trí thứ 5 trong khu vực (xếp sau Philippines 0,0015 điểm) và tiến gần hơn với nhóm 4 nước có năng lực cạnh tranh mạnh nhất trong khối các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Đây là nỗ lực hết sức đáng ghi nhận.

Cùng với đó, theo báo cáo của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, trong giai đoạn chiến lược 10 năm qua 2011 - 2020, công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% vào GDP và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước.

“Thành tích này đã góp phần đưa Việt Nam từ vị trí thứ 50 (năm 2010) lên vị trí thứ 22 (năm 2019) trong các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới”, lãnh đạo Bộ Công Thương khẳng định.

Việt Nam hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực quốc gia

Đặc biệt, theo vị lãnh đạo, tính đến nay, Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế. Phải kể đến như khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, luyện kim, sắt thép, xi măng và vật liệu xây dựng, dệt may, da giày, cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy.

“Các ngành công nghiệp chủ lực này tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước”, ông Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Trong tham luận của mình, Bộ trưởng Công Thương cũng lưu ý đến quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp của Việt Nam gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động đã ngày càng hướng vào lõi công nghiệp hóa.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng có phải ‘trường hợp đặc biệt’ ở Đại hội XIII?

Những năm qua, cơ cấu nội ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực. Việt Nam, trên thực tế, đã chuyển từ xu hướng của một quốc gia “chỉ khai thác thô”, sang tăng cường sản xuất, chế biến, sáng tạo.

Điều này có thể thấy rõ thông qua những con số “biết nói”. Tỷ trọng nhóm ngành ngành khai khoáng trong GDP liên tục giảm (từ 9,1% năm 2010 xuống còn khoảng 8,1% năm 2016 và chỉ còn 5,55% vào năm 2020).

“Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã trở thành động lực tăng trưởng chính của toàn ngành công nghiệp”, đồng chí Trần Tuấn Anh nói.

Báo cáo cũng cho biết, năm 2020, công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%.

Đồng thời, xét cả giai đoạn 2011 - 2020, nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo không ngừng được mở rộng và chiếm tỷ trọng cao nhất trong các ngành công nghiệp với đóng góp trong GDP tăng liên tục qua các năm (tăng từ 13% năm 2010 lên 14,27% năm 2016, 16,48% vào năm 2019 và đạt khoảng 16,7% vào năm 2020).

Nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Tư lệnh ngành Công Thương cho biết, tại Việt Nam, công nghiệp hỗ trợ được quan tâm thúc đẩy, tăng cường liên kết, đặc biệt là trong những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản.

“Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa. Cơ cấu sản phẩm có sự dịch chuyển tích cực khi tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao và vừa của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, tạo cơ sở hình thành một số tập đoàn công nghiệp tư nhân có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế”, đại diện lãnh đạo Bộ Công Thương nêu rõ.

Để dẫn chứng cho luận điểm trên, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu ra, tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020, đồng thời, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 44,3% năm 2016 lên 49,8% năm 2020.

Hơn 1.300 thẻ căn cước gắn chip đầu tiên được cấp cho Đại biểu Đại hội Đảng XIII

Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ sung thêm cho biết, cùng với các hoạt động thu hút đầu tư với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và công ty đa quốc gia hàng đầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước cũng đã có bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ.

Ông Trần Tuấn Anh khẳng định, trong nước đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo như Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel, Tập đoàn Vingroup (của Chủ tịch Phạm Nhật Vượng), Trường Hải Thaco (của tỷ phú Trần Bá Dương), Thép Hòa Phát, Thành Công.

“Các tập đoàn kinh tế lớn đã tạo nền tảng cho công nghiệp hỗ trợ, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”, Bộ trưởng khẳng định.
Kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào FDI?

Cùng với những thành tựu đã đạt được, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng thẳng thắn nhìn nhận một số khó khăn, thách thức đang đặt ra trong quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam. Đặc biệt, đứng trước những yêu cầu và đòi hỏi trong quá trình phát triển, tăng trưởng sắp tới với mục tiêu quốc gia là “vượt qua bẫy thu nhập trung bình, đưa Việt Nam phát triển thịnh vượng”.

Apple không chọn Việt Nam cũng là một cảnh báo: Đừng quá lạc quan về FDI

Theo tham luận của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, sản xuất công nghiệp của Việt Nam hiện nay nhìn chung vẫn đang tập trung chủ yếu vào các hoạt động sản xuất ở công đoạn cuối cùng, đem lại giá trị gia tăng thấp.

Ngoài ra, động lực trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam hiện nay vẫn đang chủ yếu được thúc đẩy bởi khu vực FDI, chiếm xấp xỉ 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

“Thực chất, đây là biểu hiện của tăng trưởng năng suất thấp và khả năng cạnh tranh yếu của khu vực kinh tế trong nước”, Bộ trưởng chỉ rõ.

Trình bày tham luận tại Đại hội XIII, lãnh đạo ngành Công Thương cũng đánh giá tính bền vững trong phát triển sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh thế giới ngày càng có những diễn biến phức tạp hơn, nhanh hơn và khó đoán định hơn trước.

Bộ trưởng cũng cho biết, tác động của dịch Covid-19 trong năm 2020 là một minh chứng điển hình cho tác động đa chiều này đối với nền kinh tế Việt Nam.

“Chúng ta cùng lúc gặp cả khó khăn, đứt gãy về thị trường đầu ra cho xuất khẩu, vừa bị đứt gãy nguồn cung phục vụ cho sản xuất trong nước”, đồng chí Trần Tuấn Anh nói.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng bổ sung thêm hai thách thức nữa là chi phí thương mại của Việt Nam vẫn đang còn cao hơn mức trung bình của ASEAN về chi phí logistics và việc tổ chức, phân bố không gian phát triển các ngành công nghiệp chưa khai thác tốt lợi thế cạnh tranh của các vùng.

Việt Nam cũng chưa hình thành được nhiều cụm ngành công nghiệp chuyên môn hóa để liên kết phát triển theo chuỗi.

Tuy nhiên, theo vị lãnh đạo, bối cảnh và tình hình thế giới hiện nay đang vừa là “nguy”, vừa là “cơ” đối với Việt Nam nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và vươn lên, bứt tốc.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Ngoại lực là quan trọng, nhưng nội lực đóng vai trò quyết định

Theo đó, dòng chảy đầu tư, xu hướng chung của thế giới vốn đang trong quá trình dịch chuyển, cộng thêm tác động của dịch Covid-19 càng làm cho đích đến của các nguồn vốn đầu tư chuyển về các địa bàn có môi trường ổn định, trong đó Việt Nam đang trở thành điểm sáng, ngày càng chiếm được lòng tin của các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thế giới.

Kinh tế Việt Nam bứt phá sau 14 năm gia nhập WTO

Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, để có thể tận dụng được thời cơ này, giúp Việt Nam có thể nâng cao được vai trò, vị thế trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu và phát triển bền vững, cần bám sát quan điểm xuyên suốt mà Đảng ta đã xác định “Ngoại lực là quan trọng, nhưng nội lực đóng vai trò quyết định”.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, cần bám sát quan điểm xuyên suốt này của Đảng trên tiến trình, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu và phát triển bền vững.

“Tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu nhưng đồng thời nâng cao tính độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế của nước ta thời gian tới vừa là yêu cầu, đòi hỏi nhưng cũng vừa là phương châm, cách thức để Việt Nam có thể vượt qua khó khăn, thách thức và tận dụng được những cơ hội để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn phát triển sắp tới”, Bộ trưởng nêu rõ.
Tăng cường vai trò nội lực các tập đoàn kinh tế của Việt Nam

Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, phải hướng tới việc tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên cơ sở tái cơ cấu mạnh mẽ từng ngành, từng lĩnh vực và khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thành công kinh tế phi thường của Việt Nam vào năm 2020

Cụ thể, Bộ trưởng nhấn mạnh cần thực hiện số hóa, công nghệ hóa phương thức sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí và tăng năng suất, chất lượng lao động trong sản xuất công nghiệp, tăng khả năng tiếp cận thông tin, dữ liệu, kết nối, hợp tác để tăng cơ hội kinh doanh mới (dựa trên nền tảng công nghệ số như thương mại điện tử, tài chính số...), tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực, tham gia hệ sinh thái số.

“Khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các Tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu trong lĩnh vực công nghiệp, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp của đất nước”, ông Anh lưu ý.

Đồng thời, tục phát huy vai trò của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là kinh tế tư nhân trong nước trong các ngành quan trọng như công nghiệp chế biến, chế tạo, bán buôn, bán lẻ, dịch vụ phân phối, chế biến nông sản, sắt thép, hàng điện tử.

Việt Nam – nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất của thế giới trong thời đại dịch

Cùng với đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng khuyến khích tập trung thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực, các cam kết trong WTO và Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đặc biệt là năng lực thực thi và hiện thực hóa các FTA đã ký kết để mở rộng thị trường xuất khẩu, kiểm soát có hiệu quả nhập khẩu.

“Tăng cường thu hút đầu tư để mở rộng sản xuất cho phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh diễn biến phức tạp từ tình hình căng thẳng chính trị, xung đột thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch trên thế giới”, lãnh đạo Bộ Công Thương lưu ý.

Ông Trần Tuấn Anh tái khẳng định, cần tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng dựa vào các lợi thế cạnh tranh động như tay nghề người lao động, năng lực sáng tạo, môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi thay vì các lợi thế cạnh tranh tĩnh, kém bền vững và ít lợi thế dài hạn (như tài nguyên, lao động phổ thông, cơ chế ưu đãi.

Thảo luận