Đã rõ thời điểm Việt Nam sẽ lọt top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới?

Việt Nam được quốc tế đánh giá là ví dụ điển hình cho các quốc gia đang phát triển khác sớm trở thành những nền kinh tế với “động cơ tên lửa đẩy”, nhiều chuyên gia, định chế tài chính tin tưởng, Việt Nam có thể lọt top 20-30 nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thập kỷ này.
Sputnik
Theo dự báo của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh (CEBR), tổ chức có trụ sở tại London, Anh, Việt Nam sẽ lọt vào top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2036.
Cùng với đó, ông Alain Cany, Chủ tịch EuroCham nhận định, trong khi con tàu kinh tế thế giới khó lường và triển vọng toàn cầu vẫn bất ổn, thì “niềm hy vọng lớn lao đã được thắp lên ở Việt Nam” và quốc gia Đông Nam Á này vẫn là điểm sáng khá tích cực.

Việt Nam sẽ lọt vào 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới năm 2036?

Tin tưởng vào triển vọng kinh tế Việt Nam và dự báo của các định chế tài chính lớn, doanh nhân Đỗ Cao Bảo, Ủy viên HĐQT Công ty cổ phần FPT, một trong các thành viên sáng lập Tập đoàn FPT, cho rằng, Việt Nam sẽ lọt vào 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới năm 2036.

“Vâng, chỉ 14 năm nữa (năm 2036), với tổng GDP quốc gia là 1.579 tỷ USD (tính theo current prices), Việt Nam chúng ta sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 20 thế giới (lọt vào nhóm G20)”, doanh nhân Đỗ Cao Bảo nói và dẫn theo dự báo của CEBR.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh (CEBR) ở Anh, có trụ sở ở London, với kinh nghiệm 25 năm trong lĩnh vực dự báo và phân tích kinh tế độc lập trong đó có kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô đã dự báo rằng, đến 2036, Việt Nam sẽ vào top 20 nền kinh tế lớn nhất hành tinh.
Hồi tháng 6 năm nay, trong chuyến thăm đến London, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự Tọa đàm cấp cao Việt Nam - Anh về kinh tế và thương mại, tại đây, ý kiến tương tự cũng đã được đề cập. Cụ thể, theo Bộ trưởng Bộ Thương mại quốc tế Anh Anne Marie Trevelyan, Việt Nam là một trong những nền kinh tế đầy hứng khởi trên thế giới và với “động cơ tên lửa đẩy”, Việt Nam sẽ lọt top 30 nền kinh tế lớn nhất toàn cầu vào cuối thập kỷ này.
“Theo phân tích của chúng tôi, cuối thập kỷ này, Việt Nam sẽ nằm trong số 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với câu chuyện phát triển của Việt Nam trong thế kỷ XXI sẽ là một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất và Anh muốn là một phần của điều này”, quan chức Chính phủ Anh tin tưởng.
Việt Nam: Từ nước nghèo bị cấm vận đến kỳ tích kinh tế khiến thế giới phải kinh ngạc
Theo bà Anne Marie Trevelyan, Việt Nam thu hút ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài với ngày càng nhiều công ty mang tầm toàn cầu. Quốc gia Đông Nam Á này cũng có danh tiếng về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp hàng đầu khu vực.
“Không mấy ngạc nhiên khi Việt Nam đang đi đầu trong sự chuyển đổi đầu tư trên thế giới. Việt Nam là ví dụ điển hình nhất về việc các nước ASEAN sẽ trở thành “động cơ tên lửa đẩy” cho nền kinh tế toàn cầu”, thành viên Chính phủ Anh khẳng định.

Để Việt Nam vào top G20

Theo dự báo của CEBR, nền kinh tế Việt Nam sẽ lần lượt tăng từ hạng 36 (năm 2022) lên hạng 30 (năm 2026), hạng 24 (2031) và hạng 20 vào năm 2036.
Khi đó, ở khu vực ASEAN, Việt Nam sẽ đứng thứ 2 sau Indonesia (thứ 8), tiếp sau Việt Nam lần lượt là Thái Lan (thứ 22), Philippines (thứ 25), Malaysia (thứ 34), Singapore (thứ 41), Myanmar (thứ 87), Cambodia (thứ 95), Lào (thứ 101), Brunei (thứ 136), Timor Leste (thứ 165), theo CEBR.
Đứng sau Việt Nam có một loạt các nước châu Âu theo thứ tự sau: Ba Lan (thứ 21), Thụy Sĩ (thứ 23), Ireland (thứ 28), Áo (thứ 29), Thụy Điển (thứ 30), Bỉ (thứ 31), Israel (thứ 32), Rumania (thứ 36), Na Uy (thứ 39), Đan Mạch (thứ 43), Czech (thứ 46), Phần Lan (thứ 52), Bồ Đào Nha (thứ 55), Hungary (thứ 56), Hy Lạp (thứ 58).
“Việt Nam cũng đứng trên tất cả các quốc gia Nam Mỹ (trừ Brazil và Mexico), đứng trên tất cả các quốc gia Trung Đông, Nam Á (trừ Ấn Độ và Saudi Arabia) và tất nhiên đứng trên tất cả các quốc gia châu Phi (bao gồm cả Nam Phi)”, theo CEBR.
Như vậy tính từ năm 2021 đến năm 2036 (15 năm) Việt Nam thăng 21 hạng từ hạng 41 lên hạng 20 thế giới, còn nếu tính từ 2006 (30 năm) Việt Nam sẽ thăng 36 hạng từ hạng 56 lên hạng 20 thế giới. Theo ông Đỗ Cao Bảo, đây quả là những bước tiến thần kỳ. Cũng theo CEBR, các nền kinh tế châu Á sẽ nổi lên nhanh chóng về quy mô, khiến các nền kinh tế phương Tây bị tụt lại phía sau.
Đến năm 2031 Trung Quốc chính thức vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới và châu Á sẽ chiếm 3 trong top 4 nền kinh tế lớn nhất thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản). CEBR còn dự báo sang nửa sau của thế kỷ 21, Ấn Độ cũng vượt qua Mỹ đẩy Mỹ xuống vị trí thứ 3 thế giới, còn Indonesia (thứ 8) và Nga (thứ 10) sẽ đẩy Canada và Ý ra khỏi top 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Theo doanh nhân Đỗ Cao Bảo, để đạt được như dự báo của CEBR, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa.

“Để đạt được như dự báo của CEBR, để Việt Nam được tham dự các cuộc họp bàn tròn các nguyên thủ quốc gia G20 hàng năm, tôi nghĩ rằng Việt Nam chúng ra cần rất nhiều nỗ lực và rất nhiều việc phải làm cũng như rất nhiều thay đổi tự làm mới mình, nhưng tôi tin rằng nhất định chúng ta sẽ đạt được”, doanh nhân Đỗ Cao Bảo nhấn mạnh.

Con tàu kinh tế thế giới khó lường, triển vọng Việt Nam khá tích cực

Mới đây, phát biểu tại hội thảo “Triển vọng Thị trường 2022” được Ngân hàng HSBC Việt Nam tổ chức, ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) kiêm Chủ tịch tập đoàn Jardine Matheson tại Việt Nam, đã đánh giá cao về thành quả tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam đạt được.
Theo ông Cany, sau khi những hậu quả nặng nề nhất của đại dịch qua đi, niềm hy vọng lớn lao đã được thắp lên ở Việt Nam. Các thị trường khác trên thế giới cũng rộn ràng không kém khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng ở mức 5,5% trong năm 2021, mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1976.
“Đó là một cảm giác lạc quan mà đã lâu rồi chúng ta chưa được cảm nhận”, tuy nhiên, theo ông Cany, dù tâm thế lạc quan là điều dễ hiểu, nhưng “con tàu” kinh tế toàn cầu đã rẽ ra những hướng khác khó lường”.
Theo lãnh đạo EuroCham, sau khi căng thẳng Nga – Ukraina leo thang, nền kinh tế toàn cầu bị giáng một đòn nghiêm trọng, kết quả là giá năng lượng tăng đột biến lan rộng trên khắp các thị trường toàn cầu, đẩy giá hàng hóa lên cao và làm gián đoạn chuỗi cung ứng. Các mặt hàng tiêu dùng, dệt may, linh kiện điện tử ngày càng trở nên đắt đỏ và khan hiếm nguồn cung hơn.
“Các nước đang phát triển chú trọng sản xuất như Việt Nam đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi những áp lực này”, ông Cany lưu ý.
Ngoài ra, theo chuyên gia, tại Trung Quốc, nước láng giềng phía bắc của Việt Nam, các biện pháp giãn cách để đối phó với những diễn biến mới của dịch bệnh vẫn được áp dụng. Gần 55% nguyên liệu thô và phụ kiện của Việt Nam dùng trong dệt may và da giày được nhập khẩu từ Trung Quốc, theo Bộ Công Thương.
Không bất ngờ khi Việt Nam vào top 7 ‘kỳ quan kinh tế thế giới’
“Chừng nào Trung Quốc còn theo đuổi chiến lược “zero COVID”, kéo theo tình trạng tắc nghẽn nguồn cung ứng và logistics thì Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu đầu vào thiết yếu như linh kiện điện tử, phụ tùng máy móc, vải vóc và hóa chất. Thực tế này đe dọa tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam”, Chủ tịch EuroCham lưu ý.
Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt lao động toàn cầu đang kìm hãm tăng trưởng. Năm 2022, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự đoán mức thâm hụt số giờ làm việc toàn cầu tương đương với 52 triệu lao động toàn thời gian bị mất việc trên thế giới. Riêng Việt Nam, quốc gia này đang gặp khó khăn trong việc có đủ nhân công cần thiết nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
“Tổng hòa tất cả những yếu tố này đã khiến niềm tin của nhà đầu tư sụt giảm trên thế giới và Việt Nam không phải ngoại lệ”, ông Cany nói.
Chỉ số Môi trường Kinh doanh (Business Climate Index – BCI) của EuroCham quý 2/2022 cho thấy niềm tin vào môi trường đầu tư của Việt Nam đã giảm 4,4 điểm xuống 68,8. Liên Hiệp quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cũng đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu.
Dù vậy ông Cany khẳng định trong bối cảnh thế giới vẫn còn bất ổn, triển vọng của Việt Nam khá tích cực. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ suy yếu chỉ ở mức 2,9% cho năm 2022, Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng ở mức 6,5%.

Không có gì ngạc nhiên khi giới đầu tư nước ngoài đổ về Việt Nam

Động lực tạo nên mức tăng trưởng này, theo các định chế tài chính, chính là lực lượng 56 triệu lao động trẻ, năng động và ngày càng am hiểu công nghệ, giúp Việt Nam trở thành một trong những lực lượng lao động lớn nhất thế giới xét cả về số lượng tuyệt đối và tỷ lệ tương quan với dân số.
“Với nguồn cung lao động chất lượng cao và giá cả phải chăng của Việt Nam, không có gì ngạc nhiên khi các nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển hoạt động sản xuất sang quốc gia này”, ông Cany nhận xét.
Bên cạnh đó, sản xuất phục vụ xuất khẩu và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là hai yếu tố đang thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tính đến năm 2021, xuất khẩu của Việt Nam chiếm 19% GDP, tăng lên đáng kể so với mức dưới 1% của năm 2010. Trên thực tế, thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện đã vượt qua Malaysia và Thái Lan.
Minh chứng là một loạt các dự án FDI tên tuổi được triển khai ở Việt Nam. LEGO, một thành viên EuroCham, đang đầu tư 1 tỷ USD vào Bình Dương để xây dựng nhà máy. Trong tương lai, đây sẽ là nhà máy đầu tiên tại Việt Nam và là nhà máy thứ hai ở châu Á của LEGO. Pegatron, nhà cung cấp của Apple, hiện có kế hoạch đầu tư tới 1 tỷ USD vào Việt Nam. Foxconn đã cam kết rót 300 triệu USD để nâng cấp cơ sở sản xuất ở Bắc Giang. Samsung sẽ bắt đầu sản xuất linh kiện bán dẫn tại Việt Nam từ năm 2023, còn Apple dự định sẽ sản xuất đồng hồ Apple Watch tại đây...
Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, vốn FDI thực hiện trong 8 tháng đầu năm 2022 đạt 12,8 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Việt Nam liên tục là một trong những quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới xét về tỷ trọng với GDP, chỉ đứng sau Malaysia trong nhóm các nền kinh tế ASEAN. Trong bối cảnh các công ty đa quốc gia tìm cách mở rộng hoạt động tại Việt Nam, một phần do chiến lược China+1 và một phần 15 Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam đã tham gia, thị trường xuất khẩu FDI sẽ còn tiếp tục tăng trưởng.

Việt Nam biết tạo nên cơ hội

Để hút FDI, theo ông Cany, Việt Nam cần tạo điều kiện dễ dàng hơn cho hoạt động kinh doanh nhằm thu hút đầu tư, chia sẻ kiến thức và chuyển giao công nghệ.
Để làm được điều đó, Việt Nam cần hết sức ưu tiên cải thiện khuôn khổ pháp lý, thủ tục hành chính và ưu đãi cho doanh nghiệp. Cùng với đó, hai nhà đầu tư cả hai khối công tư cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Cùng với đó, theo Chỉ số Môi trường Kinh doanh mới nhất của EuroCham, một lĩnh vực quan trọng Việt Nam cần cải thiện để thu hút thêm FDI là phát triển cơ sở hạ tầng.
Việt Nam có né được “mùa đông kinh tế thế giới 2023”?
Về vấn đề vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, Chính phủ Việt Nam dự kiến sử dụng ngân sách nhà nước để đáp ứng 2/3 nhu cầu, phần còn lại kỳ vọng đến từ đầu tư tư nhân.
Theo Nhịp sống doanh nghiệp dẫn ý kiến của Giám đốc HSBC Tim Evans, sau khi S&P nâng hạng Việt Nam, đầu tháng này, Moody’s cũng đã nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam lên Ba2, Việt Nam hiện chỉ kém mức đầu tư một bậc. Fitch trước đó đã nâng hạng Việt Nam lên BB vào tháng 5/2018 và hiện tại Việt Nam đang xếp hạng BB về triển vọng tích cực. Ngoài ra, Việt Nam cũng được kỳ vọng trở thành thị trường tiêu dùng toàn cầu lớn thứ 10 thế giới vào năm 2030, vượt qua cả Đức và Anh. Bất chấp những thách thức toàn cầu,
“Việt Nam đang rất nỗ lực, tiếp tục đạt thành tích, thậm chí là một quốc gia nổi bật trong khu vực về tăng trưởng GDP”, lãnh đạo HSBC nhấn mạnh.
HSBC nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 lên 6,9%. Trong quý 2/2022, GDP của Việt Nam đạt 7,7%, mức tăng trưởng cao nhất trong 11 năm qua, nhờ sự phục hồi trên diện rộng, mở cửa hoàn toàn, nhu cầu trong nước hồi phục trở lại, sản xuất tiếp tục tăng mạnh, xuất khẩu đạt mức tăng trưởng lịch sử.
Việt Nam, quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, đang tham vọng muốn trở thành một nước phát triển, đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Tầng lớp trung lưu cao (upper middle class) dự kiến sẽ tăng trung bình 17% cho đến năm 2030.
Ông Tim Evans, dẫn bình luận cho rằng, nếu Mỹ được cho là vùng đất của cơ hội, nhưng Việt Nam có những con người tạo ra cơ hội, chính con người mới tạo nên sự khác biệt.
“Tôi hoàn toàn đồng ý. Điều đó được chứng minh qua cách người Việt Nam thoát khỏi COVID-19 và cùng nhau xây dựng lại nền kinh tế, cũng như vượt qua mọi thăng trầm, vượt qua mọi thử thách trong suốt lịch sử lẫy lừng của họ”, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam khẳng định.
Thảo luận